Nhã nhạc mang ý nghĩa “âm nhạc tao nhã”, ra đời từ thế kỷ thứ XV đến giữa thế kỷ XX, là một thể loại âm nhạc được dùng để trình diễn trong cung đình Việt Nam vào các cuộc tế, lễ gắn với những lễ kỷ niệm và những ngày lễ tôn giáo cũng như là các sự kiện đặc biệt: lễ đăng quang, lễ tang hoặc các dịp đón tiếp chính thức.
Nhã nhạc đã xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc dưới thời nhà Chu (khoảng thế kỷ VI – III TCN). Về sau thì Nhã nhạc được lan tỏa tới các nước láng giềng như: Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Tuy được xem như là tài sản chung nhưng nhã nhạc của mỗi nước thì đều có các điểm riêng biệt. Ở Việt Nam thì Nhã nhạc đã bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ XV, nhưng phải chờ đến thời kỳ nhà Nguyễn mới được phát triển rực rỡ và đạt đến một trình độ uyên bác. Các triều đại quân chủ Việt Nam đã hết sức coi trọng và phát triển bộ môn Nhã nhạc, và loại hình âm nhạc này hiện nay đã trở thành một biểu tượng cho vương quyền về sự trường tồn, hưng thịnh của một triều đại.
Đặc trưng của Nhã Nhạc cung đình Huế
Đặc trưng của Nhạc cung đình là tính bao trùm đối với tất cả các bộ môn âm nhạc khác, từ Lễ nhạc (dùng vào các cuộc tế lễ lớn nhỏ của cung đình, trong các chùa miếu), nhạc thính phòng, sân khấu, kể cả các vũ điệu, mà mỗi bộ môn đều có những nghệ sĩ thượng thặng chuyên sáng tạo và biểu diễn. Các quy định về quy mô dàn nhạc, cách thức diễn xướng, nội dung bài bản, v.v. của Nhã nhạc đều rất chặt chẽ, phản ánh tính quy củ qua các định chế thẩm mỹ rất cao, có khả năng phản ánh tư tưởng, quan niệm triết lý của chế độ quân chủ đương thời, các buổi trình diễn Nhã nhạc thường huy động rất nhiều diễn viên ca múa và xiêm y phong phú với những trang trí lộng lẫy và tinh tế.
Nhạc khí dùng để tạo nên âm thanh ngây ngất lòng người
Nhạc khí dùng trong Nhạc cung đình được “chế tạo tinh vi, chạm cẩn khéo léo, tinh xảo hơn nhạc khí dùng trong dân gian, lại có đầy đủ màu âm: tiếng kim, tiếng thổ, tiếng trong, tiếng đục, tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng da, tiếng đá (khánh), tiếng đồng. Về độ cao có tiếng trầm của dây đài đàn tỳ bà, tiếng cao vút vi vu của tiếng sáo”.
Dàn Đại nhạc là dàn nhạc quan trọng trong hệ thống nhạc lễ cung đình Huế. Được diễn tấu dưới các trình thức quan trọng trong các buổi lễ. Thường được dùng trong các lễ tế như: tế Nam Giao, tế miếu, Đại triều, v.v. Đây là dàn nhạc có âm lượng lớn. Chủ yếu là dàn trống và kèn, kèm theo các nhạc cụ gõ và hơi khác. Như: bồng, não bạt (chũm chọe), mõ sừng trâu, trống cơm, kèn bầu, kèn lỡ và trong rất ít trường hợp là đàn nhị.
So với Đại nhạc, dàn Tiểu nhạc có bài bản âm nhạc tương đối ổn định hơn. Và mang màu sắc trang nhã, vui tươi. Thường được dùng trong các buổi yến tiệc của triều đình; trong các lễ đại khánh, dịp tết nguyên đán. Nhiều bài bản tiểu nhạc còn có lời ca. Nhạc khí của Tiểu nhạc bao gồm: trống bản, não bạt, mõ sừng trâu, phách tiền, tam âm la, trống chiến, sáo, đàn tam, nhị, tỳ bà và đàn nguyệt. Trong tất cả các bài bản trình diễn, người diễn viên phải hết sức tập trung để theo kịp và phối hợp nhịp nhàng với dàn nhạc và diễn viên khác tiến hành nghi lễ.
Được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể
Nhã nhạc đã trở thành một phần thiết yếu của nghi lễ cung đình Việt Nam. Với hàng trăm nghi lễ khác nhau hằng năm. Tuy nhiên, vai trò của Nhã nhạc không chỉ giới hạn ở việc hòa nhạc phục vụ các nghi lễ. Mà còn cho thấy là một phương tiện giao tiếp và thể hiện lòng tôn kính; đối với thần linh và các vua chúa thời phong kiến. Cũng như truyền tải được những tư tưởng triết lý và tri thức về vũ trụ của người Việt Nam.
Giá trị nghệ thuật
Sử sách của triều Nguyễn ghi lại có đến 12 cuộc lễ. Mỗi cuộc lễ đều có ghi đầy đủ các bài ca chương. Và có 126 bài ca chương ghi đầy đủ lời ca nguyên gốc và bản dịch. Phần nhạc khí được quy định gồm 6 loại dàn nhạc. Đó là các dàn: Nhã nhạc, Nhạc huyền (bộ nhạc treo), Đại nhạc (Cổ xuý đại nhạc), Tiểu nhạc (ti trúc tế nhạc), Ty chung và Ty khánh (dàn nhạc chuông và khánh đá), Quân nhạc (đội bả lệnh). Các dàn nhạc trên đều có các nhạc khí cụ thể. Và không dưới 30 chủng loại với số lượng trên hàng trăm nhạc khí. Ví dụ riêng dàn Đại nhạc có đến 42 nhạc cụ của 4 chủng loại nhạc khí của 2 bộ gõ và hơi. Riêng bộ gõ thuộc về loại màng rung có 20 trống.
Về bài bản cũng rất phong phú. Ví dụ thể loại Tiểu nhạc và Đại nhạc có các bài bản như sau:
- Tiểu nhạc có 15 bài bản gồm Mười bản ngự (Thập thủ liên hoàn) và 5 bản. Gồm Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, Long đăng, Long Ngâm, Tiểu khúc.
- Đại nhạc có các bài bản: Tam luân cửu chuyển, Ngũ lôi (Đăng đàn cung), Đăng đàn cung đơn, Đăng đàn cung kép, Xàng xê, Kèn chiếu, Phú lục, Tẩu mã, Bông, Mã vũ, Man, Kèn bóp (Du xuân), Cung Nam. Nam Ai, Nam Bình, Nam Trĩ.
Các thách thức và nguy cơ
Trong thế kỷ XX, Việt Nam đã trải qua nhiều biến cố. Đặc biệt là sự sụp đổ của chính quyền phong kiến và nhiều thập kỷ chiến tranh. Nó đe dọa nghiêm trọng đến sự sống còn của Nhã nhạc. Bối cảnh và chức năng xã hội truyền thống của Nhã nhạc cũng đã bị mất đi. Mặc dầu vậy, cùng với những sự hỗ trợ của các cấp chính quyền địa phương và trung ương, và các cơ quan, tổ chức nước ngoài, những nhạc công duy nhất còn sống đã lao động cật lực với mong muốn khôi phục và mang lại cho Nhã nhạc một sức sống mới. Một số bài bản Nhã nhạc đã được phục hồi trong các nghi lễ tôn giáo. Nó đã và đang trở thành nguồn cảm hứng cho âm nhạc đương đại Việt Nam.
Lên kế hoạch hành động kịp thời
Đây là một bộ môn âm nhạc vô cùng tinh vi. Mà cho đến nay chúng ta vẫn chưa nhận thức được đầy đủ giá trị của nó. Theo các nhà nghiên cứu, Nhã nhạc cần phải được dựng lại một cách trung thực các dàn Đại Nhạc, Nhã nhạc như ngày xưa, từ nhạc cụ, trang phục nhạc công đến phong cách biểu diễn qua việc tiến hành điều tra các giá trị văn hóa liên quan đến Âm nhạc cung đình Huế, xây dựng kế hoạch và đẩy mạnh công tác tư liệu hóa qua sách vở, ảnh, phim, băng nhạc, đĩa hát, v.v..
Đặc biệt là công tác tư liệu hóa từ những nghệ nhân, nhân chứng còn sống còn hiểu biết về âm nhạc cung đình qua việc kịp thời thu băng, chụp hình, quay phim những diễn xuất giai điệu, ca từ mà họ trình bày. Bên cạnh đó, cần xây dựng một chế độ tôn vinh; đãi ngộ thích đáng đối với các nghệ nhân. Nhằm khuyến khích việc truyền nghề lại cho các thế hệ kế tiếp.
Xem thêm những bài viết hay khác tại đây.