Không gian văn hóa Cồng chiêng – thanh âm của đại ngàn Tây Nguyên

Không gian văn hóa Cồng chiêng - thanh âm của đại ngàn Tây Nguyên

Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên hiện nay trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và cả Lâm Đồng. Chủ nhân của di sản văn hóa cực kỳ quý giá và đặc sắc này chính là gồm 17 dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Á và Nam đảo sống trên các khu vực cao nguyên trung bộ của mảnh đất Việt Nam hình chữ S. Các cộng đồng cư dân nơi đây thì chủ yếu sống bằng việc canh tác nông nghiệp truyền thống. Họ đã tự phát triển nhiều loại hình ngành nghề thủ công, sáng tạo ra rất nhiều phong cách trang trí và các kiểu nhà ở truyền thống độc đáo chỉ riêng nơi đây mới có được.

Những tín hiệu vui của văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên

Những tín hiệu vui của văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên
Các cộng đồng có di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên vẫn thường xuyên thực hành di sản của mình trong các nghi lễ truyền thống

Ngay sau khi di sản được UNESCO vinh danh, dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các tỉnh trong khu vực đã tích cực triển khai các biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa đặc sắc này thông qua việc ban hành nhiều văn bản của Tỉnh ủy, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của UBND tỉnh phê duyệt đề án, dự án bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn theo từng giai đoạn như tỉnh Kon Tum có đề án giai đoạn 2016-2010 và giai đoạn 2021- 2026, Đắk Lắk có 4 Nghị quyết của HĐND tỉnh theo các giai đoạn từ 2007 đến 2020…

Tỉnh Đắk Lắk tổ chức phục dựng Lễ cúng cầu mưa, Lễ kết nghĩa anh em của người Êđê tại thành phố Buôn Ma Thuột, Lễ cúng Ché tại cộng đồng, Lễ cúng mừng lúa mới và tổ chức trình diễn đúc chiêng; tỉnh Đắk Nông khôi phục lễ hội Tằm Jun – Dyun Jông – Lễ kết nghĩa của dân tộc Mạ; tỉnh Kon Tum đã tổ chức phục dựng 15 nghi lễ, lễ hội của đồng bào dân tộc thiểu số; tỉnh Gia Lai đã tổ chức phục dựng Lễ mừng nhà rông mới của người Bahnar,… và nhiều hoạt động được cộng đồng chủ động thực hiện bằng nhiều hình thức, nguồn kinh phí khác nhau.

Cồng chiêng là chiếc cầu nối giữa con người, thần linh

Cồng chiêng là chiếc cầu nối thông linh giữa con người, thần linh
Cồng chiêng càng già thì thần linh càng mạnh và càng thiêng

Tín ngưỡng chủ đạo của cư dân nơi đây xuất phát từ tục thờ cúng tổ tiên, shaman giáo và thờ cúng vật linh. Gắn bó mật thiết với cuộc sống hằng ngày của cư dân và chu kỳ các mùa trong năm, những tín ngưỡng này hình thành nên một thế giới thần bí, nơi mà những chiếc cồng chiêng là chiếc cầu nối thông linh giữa con người, thần linh và thế giới siêu nhiên. Chứa đựng bên trong mỗi chiếc chiêng, chiếc cồng là một vị thần. “Cồng chiêng càng già thì thần linh càng mạnh và càng thiêng”. Hầu như nhà nào cũng có cồng chiêng, thậm chí có gia đình có tới vài bộ. Điều này thể hiện sự giàu có và quyền thế, đồng thời cũng là vật che chắn, bảo vệ cho gia đình.

>>> Xem thêm chuyên mục văn hóa Việt Nam

Cồng chiêng là một phần không thể tách rời

Bao ngàn đời nay, cồng chiêng gắn với Tây Nguyên như một phần không thể thiếu trong suốt vòng đời mỗi con người và trong hầu như tất cả các sự kiện quan trọng của cộng đồng: từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, lễ cưới xin, lễ tiễn đưa người chết, lễ đâm trâu trong ngày bỏ mả, v.v. cho đến lễ cúng máng nước, mừng lúa mới, lễ đóng cửa kho, lễ mừng nhà rông mới, v.v.

Có giả thuyết cho rằng văn hóa cồng chiêng bắt nguồn từ văn minh Đông Sơn. Là nền văn hóa đồng thau xuất hiện tại Đông Nam Á. Cồng chiêng của Việt Nam rất đặc trưng so với những khu vực khác. Do tính cộng đồng rất cao. Điều này thể hiện ở việc mỗi nhạc công đánh một chiếc. Từng thành viên trong dàn nhạc nhớ rõ từng tiết tấu của từng bài chiêng trong mỗi nghi lễ. Và kết hợp hài hòa với các nhạc công khác cùng chơi. Tùy theo từng nhóm dân tộc. Thì cồng chiêng được đánh bằng dùi hoặc bằng tay. Mỗi dàn cồng chiêng có khoảng từ 2 đến 13 chiếc. Có đường kính dao động từ 25 đến 120 cm.

Xưa nay, người Tây Nguyên không tự chế tác mà mua cồng chiêng của người Kinh từ các vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, dân tộc Lào hoặc Campuchia, rồi về nắn chỉnh lại để có được âm thanh mong muốn. Mỗi một làng bản đều có một người chuyên lên chiêng (hay còn gọi là người chỉnh chiêng).

Trải qua bao nhiêu chuyển biến về kinh tế xã hội

Trải qua bao nhiêu chuyển biến về kinh tế xã hội
Cồng chiêng trở thành những vật buôn bán trao đổi, tái chế phục vụ cho các mục đích khác

Các quá trình chuyển biến về kinh tế, xã hội và tín ngưỡng đã và đang làm thay đổi mạnh mẽ cuộc sống của các cộng đồng nơi đây. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đang đứng trước nguy cơ mai một rất lớn. Việc gìn giữ và chuyển giao các tri thức và bí quyết về cồng chiêng lại cho thế hệ tương lai gặp rất nhiều khó khăn.

Phần vì nhiều nghệ nhân nắm giữ bí quyết qua đời; nhiều người không còn biết hết các nghi lễ truyền thống. Thế hệ trẻ ít hoặc không quan tâm đến cồng chiêng. Do sức hút mạnh mẽ của cuộc sống hiện đại và văn hóa du nhập. Ở nhiều nơi, cồng chiêng bị tước khỏi ý nghĩa nguyên bản và không gian văn hóa linh thiêng.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã trở thành một Kiệt tác Di sản truyền khẩu; phi vật thể của Nhân loại. Bên cạnh niềm tự hào là một trách nhiệm hết sức nặng nề và to lớn. Cồng chiêng vốn là tài sản vô giá. Được các cộng đồng dân tộc Tây Nguyên sáng tạo và không ngừng phát huy, trao truyền lại bao đời nay, chính vì vậy, đối mặt với những thử thách đó, Bộ Văn hóa – Thông tin đang chỉ đạo các cơ quan chức năng. Cùng với cộng đồng có những hành động cụ thể. Nhằm khôi phục các giá trị truyền thống. Trả lại cho cồng chiêng linh hồn và cuộc sống đích thực của nó.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *